Tìm kiếm
Latest topics
Nhà văn tiền phong Hồ Biểu Chánh
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Nhà văn tiền phong Hồ Biểu Chánh
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Thứ Tiên, sinh năm 1885 (có tài liệu ghi năm 1884) tại làng Bình Thành, nay thuộc xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ, ông được học chữ Nho tại gia đình rồi chữ Pháp tại trường Collège de Mytho (nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu). Năm 1905, ông thi đỗ Thành chung. Năm sau, ông thi đỗ ngạch Thư kí Hành chính và làm việc tại dinh Hiệp lý.
Từ năm 1910, ông được bổ làm Thông phán tại nhiều nơi ở Nam Kỳ, như Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên, Gia Định, v.v...Năm 1920, ông đỗ đầu kì thi Tri huyện, làm Chủ quận Càng Long, Ô Môn, Phụng Hiệp, v.v...Năm 1936, ông được thăng Đốc phủ sứ. Năm 1938, ông xin về hưu. Năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp ép ra làm việc trở lại, tham gia Hội đồng Liên bang Đông Dương, Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm chức Phó Đốc lí, phụ trách việc hộ tịch.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, ông lui về ở ẩn. Đầu năm 1946, sau khi tái chiếm Nam bộ, thực dân Pháp, một lần nữa buộc ông làm cố vấn cho chính phủ bù nhìn thân Pháp Nguyễn Văn Thinh. Vài tháng sau, chính phủ này đổ, ông lại lui về ở ẩn cho đến lúc cuối đời. Về cuộc đời "ông quan" Hồ Văn Trung, người đời sau thống nhất nhau ở một điểm: đây là ông quan thanh liêm, noi theo nếp sống thanh bạch của người xưa và xem đó là chuẩn mực để hun đúc tinh thần đạo nghĩa phương Đông.
Thế nhưng, nhân dân Nam bộ lại biết ông với tư cách là nhà văn hơn là một viên chức của chính quyền Pháp. Với bút danh là Hồ Biểu Chánh, ông đến với văn chương từ rất sớm. Năm 1910, ông viết truyện thơ đầu tay U tình lục, tiếp theo là 5 tác phẩm nữa. Từ năm 1921-1941, ông cho ra đời 44 tác phẩm. Từ năm 1943-1945, ông sáng tác sung mãn nhất: 48 tác phẩm gồm nhiều thể loại. Từ năm 1953-1958, ông cho xuất bản 22 tác phẩm. Trong quãng đời cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm: 64 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn, 7 đoản thiên, 2 tập thơ, 5 hài kịch, 4 vở Hát Bội, 3 vở cải lương, 5 tác phẩm tùy bút và phê bình, 6 tập hồi ức, 8 bài diễn thuyết, 23 tác phẩm khảo cứu và văn học.
Có thể kể những tác phẩm chính của ông, như: Ai làm được (1912), Chúa tàu Kim Quy (1922), Cay đắng mùi đời, Tỉnh mộng, Một chữ tình (1923), Nhân tình ấm lạnh, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa (1925), Thầy thông ngôn (1926), Cha con nghĩa nặng (1929), Nặng gánh cang thường, Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu (1931), Nợ đời (1936), v.v.. Tác phẩm của ông được nhiều thế hệ độc giả ở Nam bộ mến chuộng. Nhiều quyển được tái bản nhiều lần và được dựng thành phim. Đi sâu phân tích tác phẩm của ông, Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà viết:
"Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó mô tả phong tục hay tuyên truyền đạo lí mà ở chỗ nó thông qua mô tả phong tục kết hợp với tư tưởng là chủ nghĩa hiện thực. Chỉ riêng mô tả phong tục không thôi, văn học dễ biến thành dân tộc học. Còn chỉ tuyên truyền đạo đức không thôi, văn học sẽ thành luân lý. Vả lại, văn học đạo lý trước Hồ Biểu Chánh đã có Nguyễn Đình Chiểu là người thành công trên lĩnh vực này. Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện đời, kể lại những cảnh đời khác nhau có thể là không gắn gì với các biến động chính trị, kinh tế, xã hội; nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống hàng ngày".
Về sự nghiệp văn chương của ông, Giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu tổng kết tại Hội thảo về cuộc đời và văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh được tổ chức ở Tiền Giang trong hai ngày 17 và 18-11-1988 như sau: "Tôi thấy rằng, việc dạy văn Hồ Biểu Chánh được, từ Đại học, cấp 3, cấp 2, nhất là cấp 1. Sách Hồ Biểu Chánh được nhân dân tán thưởng, có nhiều lý do- không những tại văn ông hay mà còn ở chỗ cái văn không phải là văn. Cái văn không văn đó mới hay. Hay ở chỗ, nói lại tiếng nói của dân, cái tấm lòng của dân, còn hay ở chỗ đạo đức, luân lý. Ở trong sách của Hồ Biểu Chánh có đạo đức luân lý Nho giáo, Phật giáo; mà đó là của dân tộc chúng ta".
Nhìn chung, ông có những đóng góp quan trọng vào nền văn học nước nhà, nhất là thời kì văn học đầu thế kỉ XX. Tiến sĩ Hồ Sĩ Hiệp nhận định: "Tiếp thu kĩ thuật xây dựng tiểu thuyết phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện, tình tiết, bố cục tác phẩm, tính cách, tâm lý nhân vật cho đến ngôn ngữ văn chương. Cỗ xe chở tư tưởng là chữ quốc ngữ trước đó nặng nề, ì ạch; đến đây đã được đẩy đi một cách nhẹ nhàng, phăng phăng lướt trên những dặm đường văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền phong Hồ Biểu Chánh".
Ngoài ra, ông còn làm báo. Từ năm 1910-1941, ông là người sáng lập ra các tờ Đại Việt tạp chí, Tribune Indigène (tạm dịch Diễn đàn Bản xứ), Quốc dân diễn đàn, Nam kì tuần báo.
Ông mất năm 1958 tại quận Phú Nhuận, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), thọ 73 tuổi. Lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã sáng tác hai câu đối độc đáo đến viếng ông trong lễ tang:
Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được?
Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời.
Theo tiengiang.gov.vn
Thuở nhỏ, ông được học chữ Nho tại gia đình rồi chữ Pháp tại trường Collège de Mytho (nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu). Năm 1905, ông thi đỗ Thành chung. Năm sau, ông thi đỗ ngạch Thư kí Hành chính và làm việc tại dinh Hiệp lý.
Từ năm 1910, ông được bổ làm Thông phán tại nhiều nơi ở Nam Kỳ, như Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên, Gia Định, v.v...Năm 1920, ông đỗ đầu kì thi Tri huyện, làm Chủ quận Càng Long, Ô Môn, Phụng Hiệp, v.v...Năm 1936, ông được thăng Đốc phủ sứ. Năm 1938, ông xin về hưu. Năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp ép ra làm việc trở lại, tham gia Hội đồng Liên bang Đông Dương, Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm chức Phó Đốc lí, phụ trách việc hộ tịch.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, ông lui về ở ẩn. Đầu năm 1946, sau khi tái chiếm Nam bộ, thực dân Pháp, một lần nữa buộc ông làm cố vấn cho chính phủ bù nhìn thân Pháp Nguyễn Văn Thinh. Vài tháng sau, chính phủ này đổ, ông lại lui về ở ẩn cho đến lúc cuối đời. Về cuộc đời "ông quan" Hồ Văn Trung, người đời sau thống nhất nhau ở một điểm: đây là ông quan thanh liêm, noi theo nếp sống thanh bạch của người xưa và xem đó là chuẩn mực để hun đúc tinh thần đạo nghĩa phương Đông.
Thế nhưng, nhân dân Nam bộ lại biết ông với tư cách là nhà văn hơn là một viên chức của chính quyền Pháp. Với bút danh là Hồ Biểu Chánh, ông đến với văn chương từ rất sớm. Năm 1910, ông viết truyện thơ đầu tay U tình lục, tiếp theo là 5 tác phẩm nữa. Từ năm 1921-1941, ông cho ra đời 44 tác phẩm. Từ năm 1943-1945, ông sáng tác sung mãn nhất: 48 tác phẩm gồm nhiều thể loại. Từ năm 1953-1958, ông cho xuất bản 22 tác phẩm. Trong quãng đời cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm: 64 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn, 7 đoản thiên, 2 tập thơ, 5 hài kịch, 4 vở Hát Bội, 3 vở cải lương, 5 tác phẩm tùy bút và phê bình, 6 tập hồi ức, 8 bài diễn thuyết, 23 tác phẩm khảo cứu và văn học.
Có thể kể những tác phẩm chính của ông, như: Ai làm được (1912), Chúa tàu Kim Quy (1922), Cay đắng mùi đời, Tỉnh mộng, Một chữ tình (1923), Nhân tình ấm lạnh, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa (1925), Thầy thông ngôn (1926), Cha con nghĩa nặng (1929), Nặng gánh cang thường, Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu (1931), Nợ đời (1936), v.v.. Tác phẩm của ông được nhiều thế hệ độc giả ở Nam bộ mến chuộng. Nhiều quyển được tái bản nhiều lần và được dựng thành phim. Đi sâu phân tích tác phẩm của ông, Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà viết:
"Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó mô tả phong tục hay tuyên truyền đạo lí mà ở chỗ nó thông qua mô tả phong tục kết hợp với tư tưởng là chủ nghĩa hiện thực. Chỉ riêng mô tả phong tục không thôi, văn học dễ biến thành dân tộc học. Còn chỉ tuyên truyền đạo đức không thôi, văn học sẽ thành luân lý. Vả lại, văn học đạo lý trước Hồ Biểu Chánh đã có Nguyễn Đình Chiểu là người thành công trên lĩnh vực này. Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện đời, kể lại những cảnh đời khác nhau có thể là không gắn gì với các biến động chính trị, kinh tế, xã hội; nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống hàng ngày".
Về sự nghiệp văn chương của ông, Giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu tổng kết tại Hội thảo về cuộc đời và văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh được tổ chức ở Tiền Giang trong hai ngày 17 và 18-11-1988 như sau: "Tôi thấy rằng, việc dạy văn Hồ Biểu Chánh được, từ Đại học, cấp 3, cấp 2, nhất là cấp 1. Sách Hồ Biểu Chánh được nhân dân tán thưởng, có nhiều lý do- không những tại văn ông hay mà còn ở chỗ cái văn không phải là văn. Cái văn không văn đó mới hay. Hay ở chỗ, nói lại tiếng nói của dân, cái tấm lòng của dân, còn hay ở chỗ đạo đức, luân lý. Ở trong sách của Hồ Biểu Chánh có đạo đức luân lý Nho giáo, Phật giáo; mà đó là của dân tộc chúng ta".
Nhìn chung, ông có những đóng góp quan trọng vào nền văn học nước nhà, nhất là thời kì văn học đầu thế kỉ XX. Tiến sĩ Hồ Sĩ Hiệp nhận định: "Tiếp thu kĩ thuật xây dựng tiểu thuyết phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện, tình tiết, bố cục tác phẩm, tính cách, tâm lý nhân vật cho đến ngôn ngữ văn chương. Cỗ xe chở tư tưởng là chữ quốc ngữ trước đó nặng nề, ì ạch; đến đây đã được đẩy đi một cách nhẹ nhàng, phăng phăng lướt trên những dặm đường văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền phong Hồ Biểu Chánh".
Ngoài ra, ông còn làm báo. Từ năm 1910-1941, ông là người sáng lập ra các tờ Đại Việt tạp chí, Tribune Indigène (tạm dịch Diễn đàn Bản xứ), Quốc dân diễn đàn, Nam kì tuần báo.
Ông mất năm 1958 tại quận Phú Nhuận, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), thọ 73 tuổi. Lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã sáng tác hai câu đối độc đáo đến viếng ông trong lễ tang:
Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được?
Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời.
Theo tiengiang.gov.vn
Similar topics
» Trường Trung học được thành lập sớm nhất và được phong danh hiệu Anh hùng Lao động đầu tiên ở Tiền Giang
» Huỳnh Đình Điển - người kinh doanh khách sạn đầu tiên ở Tiền Giang
» Tiền Giang: Khởi công xây dựng Nhà máy Chế tạo ống thép hàn thẳng đầu tiên tại Việt Nam
» Festival Trái cây Việt Nam lần đầu tiên tại Tiền Giang
» Từ Dũ: Vị Thái hậu sống thọ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam
» Huỳnh Đình Điển - người kinh doanh khách sạn đầu tiên ở Tiền Giang
» Tiền Giang: Khởi công xây dựng Nhà máy Chế tạo ống thép hàn thẳng đầu tiên tại Việt Nam
» Festival Trái cây Việt Nam lần đầu tiên tại Tiền Giang
» Từ Dũ: Vị Thái hậu sống thọ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tue Apr 03, 2012 7:22 am by edulinks
» Khai giảng lớp luyện thi N2 và N3 tại Trung tâm Nhật Ngữ Top Globis
Wed Feb 15, 2012 12:34 pm by tuquynh
» Học tiếng Nhật - Top Globis
Sat Sep 24, 2011 7:21 am by tuquynh
» Học tiếng Nhật - Top Globis
Thu Aug 18, 2011 8:25 am by tuquynh
» which data card is better in hyderabad,andhra pradesh?
Wed Aug 03, 2011 2:46 pm by Khách viếng thăm
» free bonus casino no deposit
Wed Aug 03, 2011 4:09 am by Khách viếng thăm
» fatty acids in fish oil
Tue Aug 02, 2011 11:33 pm by Khách viếng thăm
» SVC Host services Win32 process?
Tue Aug 02, 2011 5:35 pm by Khách viếng thăm
» What are the best lightweight JavaScript MVC solutions out there?
Mon Aug 01, 2011 9:31 pm by Khách viếng thăm